Hiển thị các bài đăng có nhãn story. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn story. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Dịch tiếng anh_One thousand dollars

Part one
“One thousand dollars,” Lawyer Tolman repeated solemnly, “and here is the money. Young Gillian laughed a little as he fingers the thin package of new fifty-dollar bills.

“Too bad it’s such an awkward amount,” he said good naturedly to the lawyer. “If it had been ten thousand dollars a fellow might have a gay time for several months. Even fifty dollars would have been less trouble.” “You heard the reading of your uncle’s will,” continued Lawyer Tolman in a dry voice. “I don’t know if you paid much attention to its details. I must remind you of one, anyway. You must give you us an account of how you spent this $1,000 as soon as you have disposed of it. I believe you will obey the late Mr.Gillian’s wishes to that extent.”


Young Gillian went to his club. There he found a man whom he called Bryson. Bryson was calm and forty and not much interested in other people, but for some reason Gillian linked him. He was sitting in a corner reading a book, and when he saw Gillian approaching, he unwilling put down his book and took off his glasses.

“Bryson, listen,” said Gillian. “I have a funny story to tell you.”
  
“I wish you tell it to someone in the poolroom,” replied Bryson sourly. “You know how I hate your stories.” “

 “This is a better one than usual,” Gillian continued, lighting a cigarette; “and I’m glad to tell it to you. It’s too sad and also too funny to go with the noise of the poolroom. I’ve just come from the offices of my late uncle’s lawyer. My uncle left me a thousand dollars. Now what can a man possibly do with a thousand dollars?” “I thought,” remarked Bryson, showing very little interest, “that the late Septimus Gillian was worth about half a million.”



“He was,” Gillian agreed, “and that’s the odd part of it all. He left most of his money to a hospital and some scientist who work there. There were a few small bequests too. The butler and the housekeeper got a gold ring and $10 each. His nephew – meaning me, of course – got $1,000.”

“You’ve always had plenty of money to spend,” observed Bryson.

“Tons of money,” said Gillian. “My uncle was wonderful generous as far as an allowance was concerned.”

“Are there any other heirs? Asked Bryson.

“None.” Gillian looked down at his cigarette. “Oh, there is a Miss Hayden – she lived at his house. My uncle was her guardian. She’s a quiet girl – a musician - the daughter of somebody who knew my uncle years ago. I forgot to say that she, too, received a gold ring and $10. I wish he had left me the same things. Then I could have ordered two bottles of wine, given the ring to the waiter for a tip, and that would have been the end of the whole matter. Don’t be disagreeable and insulting. Bryan; tell me what a fellow can do with a thousand dollars.”

Bryson rubbed his glasses and smiled. And when Bryson smiled, Gillian knew that he intended to be more offensive than ever. “A thousand dollars.” he said, “means much or little. One man could begin buying a happy home with it. Another could send his sick wife to a warm climate with it and save her life. A thousand dollars would buy milk for one hundred babies during the month of August. You could have a half hour’s entertainment with it gambling at Monte Carlo. It would help an ambitious boy start his college education. I am told that amount at a sale yesterday. You could move to a small town and live respectably for several months on it. You could rent an auditorium for one evening with it and give a lecture to your audience on “The Trouble and Hardship of Becoming an Heir


“People might like you better, Bryson,” Gillian said, “if you didn’t moralize. I asked you to tell me what I could do with a thousand dollars.”

“You?” Bryson answered. “Why, Bobby Gillian, there’s one sensible thing you could do. You could buy that access, Miss Lotta Lauriere, a diamond pin with the money, and then go to Idaho and make a nuisance of yourself on a ranch. I advise a sheep ranch, for I particularly dislike sheep.”

“Thanks,” Gillian said rising. “I knew I could depend on you, Bryson. You’ve supplied me with a good plan. I wanted to spend the money all at once; I have to give an account of it, and I hate details.”

Gillian phoned for a taxi and said to the driver. “The stage entrance to the Columbine Theater” Miss Lotta Lauriere was powdering her face, almost ready to go on stage. Just then her dresser, Sarah Adams, announced that Mr. Gillian was at the door.


“Let him come in,” Miss Lauriere said as she continued to powder her face and neck. “Now what is it, Bobby? I have to be on stage in two minutes.”

“It won’t take two minutes for what I have to say. How would you like a little present like a diamond pin? I can spend as much as a thousand dollars for it.”


“Oh, you can buy it if you want to,” Miss Lauriere commented without much interest. “Hand me my other glove, Sarah. Say, Bobby, did you see that necklace Della Stacey was wearing Thursday night? It cost five thousand dollars at Tiffany’s. But of course-well-pull my hat down a little on the left, Sarah.”

“Miss Lauriere-on stage, please!” the call boy shouted from the hall. “

Gillian walked put of the theater to where his taxi was waiting.



Phần một
.” “Một ngàn đô-la”, luật sư Tolman trịnh trọng nhắc lại, “và tiền đây”. Gillian con khẽ cười khi anh sờ tay vào cái gói mỏng đựng những tờ giấy bạc năm mươi đô-la mới.

“Thật là quá tệ cho một món tiền thưởng như vậy”, anh thật tình nói với người luật sư. “Nếu đó là mười ngàn đô-la thì một anh bạn có thể có thời gian vui chơi được nhiều tháng. Thậm chí năm chục đô-la sẽ gây ít bối rối hơn.” “Anh đã nghe đọc chức thư của bác anh, luật sư Tolman nói tiếp với một giọng khô khan. “Tôi không biết anh có lưu ý nhiều đến các chi tiết của nó không. Dù sao tôi cũng phải nhắc anh một điều. Anh phải đưa cho tôi một bản giải thích anh tiêu 1000 đô-la này như thế nào ngay sau khi anh sử dụng nó. Di chúc nói rõ anh phải làm như vậy. Tôi tin rằng anh sẽ tuân theo di chúc của cố Gillian trong khoản đó”.

Gillian con đi đến câu lạc bộ của mình. Ở đó anh ta tìm thấy một người đàn ông mà anh ta gọi là Bryson. Bryson bốn mươi tuổi, là người trầm tĩnh và không lưu ý nhiều đến người khác nhưng có lý do nào đó để Gillian thích y. Y đang ngồi đọc sách ở một góc và khi thấy Gillian tiến lại, y miễn cưỡng đặt sách xuống và lấy kính đeo mắt ra.

“Nghe này, Bryson”, Gillian nói. “Tôi có một câu chuyện ngộ nghĩnh kể với anh”.

Tôi mong anh sẽ kể chuyện ấy cho ai đó trong phòng bi-da nghe”, Bryson chua chát đáp lại. “Anh biết là tôi ghét những chuyện của anh như thế nào”;

“Đây là một câu chuyện khá hơn thường lệ”, Gillian tiếp, vừa đánh lửa châm một điếu thuốc lá, “và tôi thích kể cho anh nghe. Thật là đáng buồn và cũng khôi hài lắm để mà chịu đựng nổi cái ồn ào của phong bì da này. Tôi vừa mới đến từ văn phòng luật sư của ông bác quá cố của tôi. Bác tôi để lại cho tôi một ngàn đô-la. Bây giờ thì người ta có thể làm gì được với một ngàn đô-la?” “Tôi nghĩ rằng”, Bryson nhận xét vừa tỏ ra rất ít quan tâm, “là ông Septimus Gillian quá cố đáng giá nửa triệu kia đấy”.

“Quả vậy”, Gillian đồng ý, “và đó là cái phần lẻ tẻ của toàn bộ. Bác ấy để lại hầu hết tiền của bác cho một bệnh viện và vài nhà khoa học làm việc tại đó. Cũng có vài thứ của cải nho nhỏ nữa. Người quản gia và người giữ nhà mỗi người được một chiếc nhẫn vàng và 10 đô-la. Cháu của bác ấy – tức là tôi, dĩ nhiên – được 1,000 đô-la.

“Anh luôn có bộn tiền để tiêu xài”, Bryson nhận xét.

“Cả khối tiền”, Gillian nói. “Bác tôi hào phóng tuyệt vời đến mức chiếu cố tới cả một món trợ cấp”.

“Có những người thừa kế khác không?” Bryson hỏi.

“Không”. Gillian nhìn xuống điếu thuốc lá của mình. Ồ, có một cô Hayden – cô ấy sống ở nhà của bác. Bác tôi là giám hộ của cô ấy. Cô ấy là một cô gái trầm lặng – một nhạc sĩ – con gái của một người nào đó quen với bác tôi nhiều năm về trước. Tôi nói rằng cô ấy cũng nhận được một chiếc nhẫn vàng và 10 đô-la. Tôi ước rằng bác tôi để lại cho tôi những thứ giống như vậy. Thế là tôi đã có thể gọi hai chai rượu vang, cho người hầu bàn chiếc nhẫn như là tiền bo, và như vậy sẽ chấm dứt toàn bộ câu chuyện. Anh đừng có khó chịu và sĩ nhục, Bryan nói với tôi những gì người ta có thể làm với một ngàn đôla”.

Bryson chùi kính và mỉm cười. Và khi Bryson cười thì Gillian biết rằng y định công kích hơn bao giờ hết.  .” “Một ngàn đô-la”, y nói, “có nghĩa là nhiều hay ít. Một người có thể bắt đầu mua một tổ ấm hạnh phúc với nó. Với một người khác có thể gởi người vợ bệnh của mình đến một miền khí hậu ấm áp và cứu bà ta sống. Một ngàn đô-la có thể mua sữ cho một trăm em bé suốt cả tháng tám. Anh có thể có nửa giờ tiêu khiển bài bạc với nó ở Monte Carlo. Nó có thể giúp một thanh niên tham vọng bước vào đại học. Tôi được kể rằng bức tranh nguyên bản của Corot được mua với giá đó tại nơi bán. Anh có thể tới sống ở một thị trấn nhỏ trong vài tháng. Anh có thể thuê một giảng đường và dành một buổi tối để mang bài học đến với người nghe bài thuyết giảng về “sự có khăn và gian khổ để trở thành người thừa kế”.

“Người ta có thể thích anh hơn, Bryson”, Gillian nói, “nếu anh không lên mặt dạy đời. Tôi hỏi anh cho tôi biết tôi có thể làm gì với một ngàn đô-la.”

“Anh à?” Bryson đáp. “Này, Bobby Gillian, có một điều khôn ngoan mà anh có thể mua cho cô đào Lotta Lauriere một cái kẹp kim cương với số tiền đó rồi đi Idaho và tự quấy rầy mình tại một trại chăn nuôi. Tôi khuyên một trại chăn nuôi cừu vì tôi chúa ghét cừu.”


“Cám ơn”, Gillian nói và đứng dậy. Tôi biết tôi có thể nhờ vả anh, Bryson. Anh đã cung cấp cho tôi một kế hoạch tốt. Tôi muốn tiêu số tiền ngay lập tức; tôi phải làm một bản tường thuật về nó mà tôi thì ghét chi tiết”.

Gillian điện thoại gọi một xe tắc xi và nói với người lái xe. “Lối vào sân khấu nhà hát Columbine.” . Cô Lotta Lauriere đang thoa phấn lên mặt và hầu như sẵng sàng ra sân khấu. Vừa lúc ấy Sarah Adams, người phụ trách trang phục cho cô, báo rằng có ông Gillian đang đợi ở cửa.

“Hãy để ông ấy vào”, cô Lauriere nói trong khi tiếp tục thoa phấn lên mặt và cổ. “Nào, có gì vậy Bobby? Tôi phải ra sân khấu trong hai phút nữa đấy”.

“Điều tôi cần nói sẽ không mất hai phút đâu. Cô thấy thế nào với một tặng phẩm nhỏ như là một chiếc kẹp kim cương? Tôi có thể chi cho cô nhiều lắm là một ngàn đô-la”.

“Ồ anh có thể mua nó nếu anh muốn”, cô Lauriere bình luận mà chẳng mấy quan tâm nhiều. “Đưa cho tôi chiếc găng tay khác, Sarah. Này, Bobby, anh có thấy chuổi hạt Della Stacey đeo tối thứ năm không? Nó trị giá năm ngàn đô-la tại cửa hàng Tiffany đấy. Nhưng tất nhiên - ờ - Sarah, kéo cái mũ của tôi xuống một chút về bên trái.”

Cô Lauriere – xin mời ra sân khấu!” người thanh niên phụ trách gọi lớn lên từ hành lang.

Gillian bước ra khỏi nhà hát đến chổ xe tắc xi của anh đang chờ.

dichtienganh.info_st 
Read More




Dịch tiếng anh_after twenty years

The policeman on duty moved up the avenue impressively. The look of impressiveness was from habit and not for show, because there were few people to notice him. The time was barely ten o'clock at night, but a chilly wind with a few drops of rain in it had driven most of the people off the streets. He tried the doors as he went along, swinging his club with many complicate and artful movements. Now and then he turned to lock watchfully down the quiet avenue. The policeman, with his strong form and confident manner, made a fine picture of a guardian of the peace. The district was one that closed up early. From time to time you might see the lights of a cigar store or of an all-night restaurant; but most of the doors belonged to places of business that had closed hours before.


About midway of a certain block, the policeman slowed his walk. A man with an unlighted cigar in his mouth was standing in the doorway of a darkened store front. As the policeman walked over to him, the man spoke up quickly.

“It’s all right, officer,” he said. “I’m just waiting for a friend. It’s an appointment made twenty years ago. This may sound a little odd to you, so I’ll explain. Twenty years ago there was a restaurant here – Joe Brady’s restaurant.”


“It was torn down,” the policeman said, “about five years ago.”

The man in the doorway struck a match and lit his cigar. The light showed a pale, square-jawed face with keen eyes and a little white scar near his right eyebrow. There was a diamond pin in his necktie.

"Twenty years ago tonight," the man continued, "I dined here at Joe Brady's restaurant with Jimmy Wells, my best friend and the finest fellow in the world. He and I grew up here in New York together, just like two brothers. I was eighteen and Jimmy was twenty. The next morning I was to start for the West to make my fortune. Jimmy didn’t want to go; he thought New York was the best place on earth to live. Well, we agreed that we would meet here exactly twenty years from that date and time, no matter what our conditions might be or what distance we might have to travel. We supposed that in twenty years each of us ought to have our fortune made, and we ought to have found our rightful places in the world by that time."


"It sounds pretty interesting," the policeman remarked. "Rather a long time between meets, though, it seems to me. Haven't you heard from your friend since you left?"


"Well, yes. For a time we wrote to each other," the other main continued. "But after a year or two we lost contact with each other completely. You see, the West is a pretty big place, and I kept moving around all the time. But I know Jimmy will meet me here tonight if he's alive, for he always was the truest, most loyal fellow in the world. He'll never forget. I came a thousand miles to stand in this doorway tonight, and it's worth the trip if my old friend comes to meet me." The waiting man pulled out a handsome watch, the lid of which was set with small diamonds.


"Three minutes to ten," he announced. "It was exactly ten o'clock when we parted here at the restaurant door."

"You did pretty well in the West, didn't you?" the policeman said.

"You’re right! I hope Jimmy has done half as well. He was sort of dull, although he was a very night fellow. I've had to compete with some of the sharpest people in the country to make my fortune. A man gets dull in New York. But the West makes him sharp." The policeman twirled his club and took a step or two.

"I'll be on my way. I hope your friend comes. Are you going to live if he’s not here exactly at ten o’clock?"


"Oh, no" the other said. "I'll give him half an hour at least. If Jimmy is alive, he'll be here by that time.

Good night, officer." "Good-night, sir," the policeman said, continuing along his route, trying the doors as he went.

There was now a fine, cold drizzle falling, and the wind was blowing steadily. The few people walking around that district hurried along silently with their coat collars turned up and with their hands their pockets. And in the doorway of the store, the man who had come a thousand miles to keep an uncertain appointment with the friend of his youth smoked his cigar and waited. About twenty minutes later a tall man in a long overcoat, with collar turned up to his ears, hurried across from the opposite side of the street. He went directly to the waiting man.


"Is that you, Bob?" he asked doubtfully. “"Is that you, Jimmy Wells?" responded the man in the doorway.


"It’s good to see you!" the new arrival said, grasping both the other's hands in his own "It's good old Bob. I knew I’d find you here if you were still in existence. Well, well, well! Twenty years is a long time. The old restaurant’s gone, Bob. I wish it had remained, so we could have had another dinner there. How did you like the West, old fellow?"


"Marvelous. I found everything I wanted there. You've changed a lot, Jimmy. I never thought you were so tall."

"Oh, I grew a little after I was twenty

"Are you doing well in New York, Jimmy "Moderately. I have a job in one of the city departments. Come on, Bob. We'll go around the corner to a place I know and have a long talk about old times.".

The two men started up the street arm in arm. The man from the West, his egotism enlarged by success, was beginning to outline the history of his career. The other man listened with interest.

At the corner there was a drug store, brilliant with electric lights. When they reached this lighted area, they turned to look at each other. The man from the West stopped suddenly and released the other man’s arm. "You're not Jimmy Wells," he said angrily. "Twenty years is a long time, but not long enough to change a man's nose from a long one to a short one."

 "Sometimes it changes a good man into a bad one”, the tall man replied. "You've been under arrest for ten minutes, Silky Bob. Chicago police thought you might come to New York and they asked us to arrest you. I hope you’ll go quietly. That's sensible. Now, before we go to the station, here's a note I was asked to give you. You may read it here at the window. It's from Officer Jimmy Wells."

The man from the West unfolded the little piece of paper handed him. His hand was steady when he began to read, but it trembled a little by the time he had finished. The note was rather short.

Bob: I went to the appointed place on time. I was the policeman you were talking to. When you struck a match to light your cigar, I saw it was the face of the man wanted by the police in Chicago. Since I hated the idea of arresting an old friend myself, I sent a plain clothes man to do it.
 Jimmy


Viên cảnh sát đang hành sự đi ngược lên đại lộ một cách oai vệ. Cái vẻ oai vệ do thói quen chớ không phải để phô trương, bởi vì chẳng có ai để ý đến ông ta. Lúc ấy mới có mười giờ đêm nhưng một ngọn gió lạnh cùng vài giọt mưa đã xua hầu hết người ta rời khỏi các đường phố. Ông ta lay thử các cửa khi đi dọc theo đường phố, vừa vung vẩy chiếc dùi cui với nhiều động tác phức tạp và điệu nghệ. Thỉnh thoảng ông ta quay lại chăm chú nhìn xuống con đại lộ vắng vẻ. Viên cảnh sát với dáng dấp mạnh mẽ và cử chỉ tự tin tạo nên hình ảnh đẹp đẽ của một người bảo vệ thái bình. Khu này là một nơi đóng cửa sớm. Đôi lúc người ta có thể thấy ánh đèn của một cửa hiệu bán xì-gà hoặc một nhà hàng mở suốt đêm, nhưng hầu hết các cửa hàng thuộc chỗ thương mại đã đóng cửa nhiều giờ trước đó.

Khoảng nửa chặng đường một khu phố nào đó, viên cảnh sát chậm bước lại. Một người đàn ông với điếu xì gà chưa đốt ngậm ở miệng đang đứng ở khung cửa trước một cửa hàng tối om. Khi viên cảnh sát đi qua y, người đàn ông lên tiếng nói nhanh.

“Yên ổn cả, ông cảnh sát ạ”, y nói. “Tôi đang đợi một người bạn thôi. Đây là một cuộc hẹn từ hai mươi năm trước. Chuyện này có thể là kỳ quặc đối với ông cho nên tôi sẽ giải thích. Hai mươi năm trước chỗ này có một nhà hàng – nhà hàng của Joe Brady”.

“Nó sụp đổ rồi”, viên cảnh sát nói, “khoảng năm năm trước”.

Người đàn ông đứng ở ô cửa đánh diêm đốt điếu xì-gà. Ánh lửa cho thấy một bộ mặt tái, quai hàm vuông với đôi mắt sắc và một cái sẹo nhỏ trắng gần chân mày phải. Có một chiếc kẹp kim cương trên cà vạt của y.

“Đêm nay hồi hai mươi năm trước”, người đàn ông nói tiếp, tôi ăn tối ở đây, tại nhà hàng của Joe Brady với Jimmy Wells, người bạn tốt nhất của tôi và là anh chàng tế nhị nhất trần đời. Hắn và tôi cùng lớn lên ở đây tại Nữu Ước giống hệt hai anh em. Tôi mười tám và Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi khởi hành đi miền Tây để làm giàu. Jimmy không muốn đi, hắn cho rằng Nữu Ước là nơi tốt nhất trên quả đất để sống. Thế nên chúng tôi thỏa thuận rằng chúng tôi sẽ gặp nhau lại tại đây đúng hai mươi năm kể từ ngày và giờ ấy, bất kể đến những điều kiện của chúng tôi có thể sẽ như thế nào hoặc khoảng cách mà chúng tôi có thể sẽ phải đi. Chúng tôi giải thiết rằng trong hai mươi năm mỗi đứa phải giàu lên, và chúng tôi kiếm cho được những chỗ đứng xứng đáng trên thế giới trong thời gian ấy”.

“Câu chuyện nghe khá hay”, viên cảnh sát nhận xét. “Dù rằng đối với tôi, dường như thời gian giữa các cuộc gặp nhau là khá dài. Ông không được tin gì về bạn ông từ khi ông đi sao?”

“Ờ, có chứ. Có thời gian chúng tôi viết thư cho nhau”, người đàn ông kia nói tiếp, “nhưng sau một hai năm chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với nhau. Ông thấy đó, miền Tây là một nơi khá lớn và tôi thì xê dịch quanh khắp suốt thời gian. Nhưng tôi biết Jimmy sẽ gặp tôi tối nay ở đây nếu hắn còn sống, vì hắn luôn là thằng bạn chân thành nhất, trung thực nhất trần đời. Hắn không bao giờ quên đâu. Tôi đã đi cả ngàn dặm để đến đứng tại thềm cửa này tối nay, và thật là xứng đáng cho cuộc hành trình nếu ông bạn cũ của tôi đến để gặp tôi”.  Người đàn ông đang chờ đợi rút ra một cái đồng hồ xinh xắn trên mặt có đính những hạt kim cương nhỏ.

“Mười giờ kém ba phút”, y nói. “Trước kia khi tôi ở đây ra đi là đúng mười giờ tại cửa nhà hàng”.

“Ông đã làm ăn khá giả ở miền Tây, phải không?” Viên cảnh sát hỏi.

“Ông nói đúng! Tôi hi vọng Jimmy cũng đã thành công dược phân nửa ấy. Hắn là loại đần độn, mặc dù là một thằng bạn rất tốt. Tôi đã phải đua tranh với vài kẻ trong số những tay sắc sảo nhất nước để làm giàu. Anh nào ở Nữu Ước rồi cũng thành đần độn. Thế nhưng miền Tây thì làm cho hắn khôn ra”. Viên cảnh sát quay quay cái dùi cui và đi một vài bước.

“Tôi sẽ đi đường tôi. Tôi hy vọng bạn ông đến. Nếu anh ta không đến đây vào đúng mười giờ thì ông có bỏ đi không?”

“Ồ, không”, người kia đáp. “Tôi sẽ chờ hắn ít nhất là nửa giờ. Nếu Jimmy còn sống hắn sẽ đến đây vào lúc đó. Chào ông cảnh sát”.

“Chào ông”, viên cảnh sát nói và đi tiếp dọc theo đường của ông ta, vừa đi vừa lay lay thử các cửa.

Một cơn mưa bụi lạnh đang rơi và gió đang thổi không ngừng. Một ít người đang đi quanh khu đó lặng lẽ bước nhanh, cổ áo bật lên và tay đút túi. Và ở thềm cửa nhà hàng, người đàn ông đã đi cả ngàn dặm đến để giữ lời một cuộc hẹn mơ hồ với một người bạn thời tuổi trẻ, thì đứng hút xì gà và chờ đợi. Khoảng hai mươi phút sau một người đàn ông cao, mặc áo choàng dài với cổ áo bật lên tận tai vội vàng băng qua từ phía đối diện của đường phố. Người ấy tiến thẳng đến người đàn ông đang chờ.


“Phải cậu đấy không, Bob?” người ấy dè dặt hỏi. “Phải cậu đấy không Jimmy Wells?” người đàn ông đứng ở cửa trả lời.

“Gặp cậu mừng quá!” người mới đến nói, vừa chụp lấy hai bàn tay của người kia nắm trong tay mình. “Thật là mừng bạn Bob cũ. Mình biết sẽ tìm thấy cậu ở đây nếu cậu còn sống. Ờ, ờ, ờ! Hai mươi năm là một thời gian dài. Cái nhà hàng cũ sập rồi, Bob ạ. Mình ước gì nó còn để chúng mình có thể ăn một bữa tối khác ở đó. Này bạn cũ, cậu thấy miền Tây thế nào?”

“Tuyệt vời. Mình đã tìm thấy ở đó mọi thứ mình muốn. Cậu thay đổi nhiều Jimmy. Mình không bao giờ ngờ là cậu cao đến thế”.

." “Ồ, sau hai mươi tuổi mình lớn hơn một chút”. ?"
“Cậu làm ăn ở Nữu Ước khá không, Jimmy?”. “Tầm thường thôi. Mình có việc làm tại một trong các gian hàng của thành phố. Chúng ta hãy đi tiếp, Bob. Chúng ta hãy đi vòng quanh góc phố đến một chỗ mình biết rồi nói chuyện dài về thời xưa.”

Tay trong tay hai người bắt đầu đi lên đường phố. Người đàn ông từ miền Tây đến, tính tự cao tự đại nổi lên do thành công, bắt đầu phác thảo lịch sư nghề nghiệp của y. Người kia chăm chú lắng nghe.

. Ở một góc phố có một cửa hiệu thuốc tây đèn điện sáng trưng. Khi đi đến vùng sáng ấy họ quay lại nhìn nhau. Người từ miền Tây thình lình đứng lại và buông cánh tay người kia ra. “Ông không phải là Jimmy Wells”, y giận dữ nói. “Hai mươi năm là một thời gian dài, nhưng không đủ dài để biến đổi mũi của một người từ một cái dài thành ngắn”.

“Đôi khi nó biến đổi một người tốt thành một người xấu”, người cao đáp lại. “Anh đã bị bắt mười phút rồi, Silky Bob. Cảnh sát Chicago nghĩ rằng anh có thể đến Nữu Ước và họ yêu cầu chúng tôi bắt anh. Tôi mong rằng anh yên lặng mà đi. Vậy là biết điều. Bây giờ trước khi chúng ta đi về bót, đây là một bức thư ngắn người ta nhờ tôi trao cho anh. Anh có thể đọc nó ở đây, tại cửa số. Đó là thư của cảnh sát viên Jimmy Wells”.

Người đàn ông từ miền Tây mở mảnh giấy nhỏ trao lại cho y. Bàn tay y bất động lúc y bắt đầu đọc khẽ run lên khi y đọc xong. Bức thư khá ngắn.

Bob: Tôi đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Tôi là người cảnh sát anh đã nói chuyện cùng. Khi anh đánh diêm để đốt xì gà, tôi thấy đó là mặt một người bị cảnh sát Chicago truy nã. Vì tôi ghét cái ý tưởng chính mình bắt giữ một người bạn cũ, tôi đã phái một công an viên mật làm việc ấy.

Jimmy

dichtienganh.info_st 



Read More




Dịch tiếng anh_The open windows



"My aunt will be down presently, Mr. Nuttel," said a very self-possessed young lady of fifteen; "in the meantime you must try and put up with me."

Framton Nuttel endeavored to say the correct something which should duly flatter the niece of the moment without unduly discounting the aunt that was to come. Privately he doubted more than ever whether these formal visits on a succession of total strangers would do much towards helping the nerve cure which he was supposed to be undergoing

"I know how it will be," his sister had said when he was preparing to migrate to this rural retreat; "you will bury yourself down there and not speak to a living soul, and your nerves will be worse than ever from moping. I shall just give you letters of introduction to all the people I know there. Some of them, as far as I can remember, were quite nice."


Framton wondered whether Mrs. Sappleton, the lady to whom he was presenting one of the letters of introduction came into the nice division.

"Do you know many of the people round here?" asked the niece, when she judged that they had had sufficient silent communion.

"Hardly a soul," said Framton. "My sister was staying here, at the rectory, you know, some four years ago, and she gave me letters of introduction to some of the people here.". He made the last statement in a tone of distinct regret.

"Then you know practically nothing about my aunt?" pursued the self-possessed young lady. 

"Only her name and address," admitted the caller. He was wondering whether Mrs. Sappleton was in the married or widowed state. An undefinable something about the room seemed to suggest masculine habitation.

"Her great tragedy happened just three years ago," said the child; "that would be since your sister's time."

"Her tragedy?" asked Framton; somehow in this restful country spot tragedies seemed out of place.

"You may wonder why we keep that window wide open on an October afternoon," said the niece, indicating a large French window that opened on to a lawn.

"It is quite warm for the time of the year," said Framton; "but has that window got anything to do with the tragedy?"

"Out through that window, three years ago to a day, her husband and her two young brothers went off for their day's shooting. They never came back. In crossing the moor to their favorite snipe-shooting ground they were all three engulfed in a treacherous piece of bog. It had been that dreadful wet summer, you know, and places that were safe in other years gave way suddenly without warning. Their bodies were never recovered. That was the dreadful part of it." Here the child's voice lost its self-possessed note and became falteringly human. "Poor aunt always thinks that they will come back someday, they and the little brown spaniel that was lost with them, and walk in at that window just as they used to do. That is why the window is kept open every evening till it is quite dusk. Poor dear aunt, she has often told me how they went out, her husband with his white waterproof coat over his arm, and Ronnie, her youngest brother, singing 'Bertie, why do you bound?' as he always did to tease her, because she said it got on her nerves. Do you know, sometimes on still, quiet evenings like this, I almost get a creepy feeling that they will all walk in through that window--"

She broke off with a little shudder. It was a relief to Framton when the aunt bustled into the room with a whirl of apologies for being late in making her appearance. "I hope Vera has been amusing you?" she said.

"She has been very interesting," said Framton.

"I hope you don't mind the open window," said Mrs. Sappleton briskly; "my husband and brothers will be home directly from shooting, and they always come in this way. They've been out for snipe in the marshes today, so they'll make a fine mess over my poor carpets. So like you menfolk, isn't it?"

She rattled on cheerfully about the shooting and the scarcity of birds, and the prospects for duck in the winter. To Framton it was all purely horrible. He made a desperate but only partially successful effort to turn the talk on to a less ghastly topic, he was conscious that his hostess was giving him only a fragment of her attention, and her eyes were constantly straying past him to the open window and the lawn beyond. It was certainly an unfortunate coincidence that he should have paid his visit on this tragic anniversary.

"The doctors agree in ordering me complete rest, an absence of mental excitement, and avoidance of anything in the nature of violent physical exercise," announced Framton, who labored under the tolerably widespread delusion that total strangers and chance acquaintances are hungry for the least detail of one's ailments and infirmities, their cause and cure. "On the matter of diet they are not so much in agreement," he continued.

"No?" said Mrs. Sappleton, in a voice which only replaced a yawn at the last moment. Then she suddenly brightened into alert attention--but not to what Framton was saying.

"Here they are at last!" she cried. "Just in time for tea, and don't they look as if they were muddy up to the eyes!"

Framton shivered slightly and turned towards the niece with a look intended to convey sympathetic comprehension. The child was staring out through the open window with a dazed horror in her eyes. In a chill shock of nameless fear Framton swung round in his seat and looked in the same direction.

In the deepening twilight three figures were walking across the lawn towards the window, they all carried guns under their arms, and one of them was additionally burdened with a white coat hung over his shoulders. A tired brown spaniel kept close at their heels. Noiselessly they neared the house, and then a hoarse young voice chanted out of the dusk: "I said, Bertie, why do you bound?"

Framton grabbed wildly at his stick and hat; the hall door, the gravel drive, and the front gate were dimly noted stages in his headlong retreat. A cyclist coming along the road had to run into the hedge to avoid imminent collision.

"Here we are, my dear," said the bearer of the white mackintosh, coming in through the window, "fairly muddy, but most of it's dry. Who was that who bolted out as we came up?"

"A most extraordinary man, a Mr. Nuttel," said Mrs. Sappleton; "could only talk about his illnesses, and dashed off without a word of goodby or apology when you arrived. One would think he had seen a ghost."


"I expect it was the spaniel," said the niece calmly; "he told me he had a horror of dogs. He was once hunted into a cemetery somewhere on the banks of the Ganges by a pack of pariah dogs, and had to spend the night in a newly dug grave with the creatures snarling and grinning and foaming just above him. Enough to make anyone lose their nerve." 

Romance at short notice was her speciality.



Cánh cửa rộng mở


“Dì của cháu sẽ xuống bây giờ đấy, ông Nuttel”. Cô gái trẻ khoảng mười lăm tuổi nói. “Trong khi chờ đợi, ông phải cố gắng đưa mấy thứ này lên cho cháu  nhé.”

Framton Nuttel cố gắng chuyển câu chuyện sang một hướng khác để cô bé không còn nói về dì của cô nữa. Trong thời điểm này, không cần thiết phải nới quá nhiều đến bà dì đó. Cá nhân ông nghi ngờ nhiều hơn bao giờ hết về những chuyến thăm chính thức liên tiếp của những người xa lạ. Ông không tin rằng họ sẽ giúp đỡ cho việc chữa trị bệnh thần kinh mà ông đã từng mắc phải.

“Ông biết phải làm thế nào mà!” Framton trả lời cô bé. Chị gái ông đã nói với ông khi ông chuẩn bị chuyến đi về nông thôn rằng “Cậu sẽ bị chôn mình dưới đó và chẳng thể nói chuyện được với một ai, các dây thần kinh của cậu sẽ càng tồi tệ hơn. Chị chỉ có thể viết giúp cậu mấy lá thư giới thiệu cho tất cả những người mà chị quen ở đó. Theo như chị biết thì cũng có một số người rất tốt bụng đấy.”

Framton tự hỏi, liệu bà Sappleton, người mà ông đã biết qua những tờ giấy giới thiệu sẽ là một người thế nào.

“Cháu có biết nhiều người quanh đây không?” Framton hỏi cô cháu gái khi cả hai đã có đủ thời gian im lặng để thấu hiểu.

“Hầu như không có lấy một bóng người”, Framton nói, “Chị gái ông đã từng ở đây, tại nhà xứ, như cháu biết đấy, cách đây khoảng bốn năm thì phải, và chị ấy đã viết thư giới thiệu ông với một số người ở đây.” Ông nói với một giọng nuối tiếc.

“Vậy ông có biết về dì của cháu không?” Cô gái hỏi.

“Chỉ là tên và địa chỉ thôi”. Ông trả lời. Ông đang thắc mắc bà Sappleton đang trong tình trạng kết hôn hay góa bụa. Một cái gì đó không thoải mái cho lắm trong tâm tư ông.

“Thảm kịch của chị ông xảy ra vào khoảng ba năm trước,” ông nói với cô bé.

“Thảm kịch gì cơ ạ?” Cô bé hỏi lại, “Sao lại có thể có thảm kịch ở một nơi bình yên như thế này chứ.”

“Cháu có biết tại sao chúng ta luôn mở rộng cửa vào tháng mười không?” Ông chỉ tay cho cô cháu gái thấy một cánh cửa lớn kiểu Pháp hướng ra bãi cỏ.

“Đó là thời điểm nóng nực nhất trong năm”, cô gái trả lời Framton, “nhưng cánh cửa thì có liên quan gì với thảm kịch ạ?”

“Từ cánh cửa đó, ba năm trước, chồng và hai người em của cô ấy đã ra đi và không bao giờ trở lại… Họ muốn chụp những bức ảnh tuyệt vời, nhưng cả ba đã bị nhấn chìm trong đầm lầy. Đó là một mùa hè ẩm ướt, cháu biết không, những nơi thật sự tĩnh lặng và có vẻ an toàn này lại luôn đưa ra một cái chết đột ngột, không thể ngờ nhất… đó là phần đáng sợ của nó.” Cô gái im lặng lắng nghe ông nói tiếp. “Chị ấy luôn nghĩ rằng rồi họ sẽ trở về vào một ngày nào đó, cùng với con chó xpanhon màu nâu, và đi vào qua cánh cửa giống như là họ đã đi ra từ đó. Thế nên cánh cửa ấy luôn được mở rộng cho đến tận khuya. Khổ cho chị ấy lắm. Chị ấy vẫn thường nói với ông rằng chị vẫn thấy chồng chị với chiếc áo chống thấm màu trắng trên cánh tay, và Ronnie, người em trai trẻ nhất đang hát rằng “Bertie, sao chị cứ bị ràng buộc mãi thế?”, cứ như là đang trêu chọc chị ấy. Cháu không biết đâu, đôi khi trong những buổi tối yên tĩnh thế này, ông gần như cảm thấy một cảm giác đáng sợ là họ đang đi qua cánh cửa ấy…”


Cô gái nhìn ông với cái rùng mình khe khẽ. Bà Sappleton vội vã đi vào phòng với một lời xin lỗi cuống quýt cho sự chậm trễ của mình. “Tôi hi vọng là Vera sẽ khiến ông vui.” Bà nói.

“Cô bé rất thú vị”, ông trả lời.

“Tôi mong là ông đừng quan tâm tới cái cửa mở  đó”, bà nói, “người chồng và người anh em của tôi sẽ về sau khi chụp ảnh xong, và họ luôn đi theo cách này để tới đầm lầy, họ chụp ảnh tốt lắm đây. Đó là công việc yêu thích của cánh đàn ông mà, phải không?”

Bà nói tiếp về chuyện quay phim, chụp hình các loài chim quý hiếm, và cả về triển vọng cho lũ vịt trong mùa đông. Đối với Framton, tất cả đều thật khủng khiếp. Ông đã hoàn toàn thất bại trong việc chuyển hướng tới những câu chuyện khác ít rùng rợn hơn. Ông biết rằng, bà chủ nhà chỉ để cho ông một chút quan tâm nho nhỏ, đôi mắt của bà luôn lướt ra cửa sổ và nhìn xuống bãi cỏ. Thật đáng tiếc, nó có lẽ chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên trong chuyến đi thăm bi thảm này.


“Các bác sỹ nói tôi phải nghỉ ngơi, tránh những cú sốc tinh thần, và không được làm bất cứ một việc gì nặng nhọc”, Framton nói, làm việc ở một mức độ vừa phải là một cách tốt để cải thiện tình hình bệnh tật và sức khỏe của một người bệnh như ông. “Các vấn đề về ăn uống cũng khá thoải mái, không kiêng kem gì nhiều…”, ông tiếp tục câu chuyện.

“Không!” Bà Sappleton nói bằng một giọng đã khá mệt mỏi. Rồi đột nhiên bà bật dậy, nhưng không phải vì sự chú tâm đặc biệt nào đó với những gì ông đang nói.

“Cuối cùng họ cũng đã về!”, bà òa khóc. “Chỉ trong khoảng thời gian uống một tách trà, và nhìn kìa họ dính đầy bùn đất!” 

Framton rợn người, ông quay về phía cô cháu gái với ý định truyền đạt sự cảm thông. Cô bé đang nhìn chằm chằm ra cửa, đôi mắt mở to trên khuôn mặt kinh hoàng. Một cú sốc khá mạnh, lạnh như băng giá vô hình chạy quanh Framton, và ông cũng hướng mắt ra theo hướng họ nhìn.

Trong bóng chiều sâu thẳm của buổi hoàng hôn, ba con người đi bộ qua bãi cỏ, hướng về phía cửa, tất cả họ đều đeo súng, và một người vắt chiếc áo khoác trắng qua vai. Con chó nâu mệt mỏi theo sau gót chân họ. Không gian như chết lặng cho đến khi họ tiến về đến nhà, và sau đó là giọng nói khàn khàn cất lên: “Em đã nói mà, Bertie, sao chị lại cứ bị ràng buộc mãi thế”.

Framton điên cuồng chụp lấy mũ và cây gậy, đẩy mạnh cánh cửa phòng, hấp tấp lao ra khỏi nhà. Một người đi đang chạy xe đạp trên đường vội vã liệng vô hàng rào để tránh một cú va chạm.

“Chúng tôi về rồi đây, em yêu”, người cầm chiếc áo khoác trắng không thấm nước nói khi bước tới gần cửa, “Khá lầy lội, nhưng hầu hết là khô. Ai là người vừa chạy ra khỏi nhà  chúng ta vậy nhỉ?”

“Nuttel, một người đàn ông phi thường”, bà Sappleton trả lời, “ông ta chỉ có thể nói chuyện về bệnh tình của mình, và bỏ chạy mà không nói một lời tạm biệt hay xin lỗi. Người ta sẽ nghĩ là ông ấy vừa nhìn thấy một con ma đấy.”

“Cháu nghĩ ông ta là một người không thành thật”, cô cháu gái bình tĩnh nói, “Ông ấy nói với cháu là ông ấy đã gặp một chuyện kinh hoàng với những con chó điên. Ông ấy bị săn đuổi ở một nơi nào đó trên bờ sông Hằng và phải qua đêm bên những ngôi mộ mới đào cùng với những tiếng gầm gừ của lũ chó hoang. Điều đó đủ để làm bất cứ ai sợ đến đứt hết dây thần kinh trong não của họ.”

Cường điệu mọi thứ đúng là một sở thích khá đặc biệt.
dichtienganh.info_st 














Read More




Dịch tiếng anh_My Grandma’s village


Awarded  The Notes Prize  by The Writers’Association of VietNam
Story: Kim Quyên
Translation: Tôn Thất Lan

When we arrived at the My Tay river, my grandma told me to stop the boat by a coconut tree for a rest.

The river was unusually deserted. The tingling quiet of the deadly war time, so somber, so mysterious. All of a sudden was heard the twittering from a topless mango tree. The magpie robin’s innocent and accelerated sounds made the scene less deserted. The mango tree showed off its branches of mangoes as if reserving all that was valuable of its own as a reward to those  who still stayed with the patch of land rampaged by bullets  and shelling.


Standing up straight, I reached for some fruit, but prevented by my grandma

“Leave them for our comrades on mission. Lot of mangoes at home”,
“I get some for grandpa”,
“Stop it. Lot of things for him already. Let’s wait until next season. He doesn’t crave for them”.

I was afraid fruits would be spoiled by the birds, but I was resigned under her pressure. Really, we had an intact fruit garden at Cai Be. I still wanted to get some for him. I loved him.

After the short rest, she motivated “Get out of the river span. A lot of shelling here at no time . I feared bombing, starting to row. We tried hard to listen to the planes at a distance.



Past the Xeo Muong, she said “We are going to reach our destination…You can stop, I row.

I stopped, but instead opened the way by driving away the hyacinths that filled the river. I was beholding the landscape. How wild it was. Weeds covered the bridges over the river. A heap of ruins burnt on places where cottages used to be. Still some first blossoms from uncared apricot trees. Crows’loud cawing worried me. I turned to my grandma. She encouraged me



“Don’t be afraid. Your grandpa has lived long in this place. We stop here and wait for him, he’s not out yet, you sound the quail’s sound and he knows it.

We were sitting surrounded by flowers. In the dirty water, the flowers stayed pink, some blossom, others just budded, pinkish on top soaring out greenish  leaves. They slightly stooped to the gentle gusts of wind. Still no answer from grandpa, she told me to call him “May be he doesn’t see us. Weeds so tall, much taller than last year”


Caw! Caw! Caw! I imitated the quail, then listened. There was, after a time, something moving among the leaves and  bushes and there went a small boat.  At the helm was an old man, tall and slim with a turban on: my grandpa


In a choked voice, she said “There he is coming. Don’t shout your greeting”.

He rowed very fast. In the afternoon sunshine, he looked tall and strong with a stick in his hand. His face straightened  with a grin, his eyes brightened,  his rather sharp nose. He might be taken for a French person in Vietnamese clothes. In a low voice, I called, “Grandpa! Grandpa!” When the two boats touched, he helped me over his boat. He hugged me close, tears shedding and said in his hoarse voice ,“I waited here for long”.


My grandma was crying, covered with a conical hat. Looking at her and at him, I was going to cry, too. I tried to stop it and  said in a choked voice “How sad it is to live here. You are alone or with some one?”, he stroked my head forcing a smile “No such emotions for a warrior. I should have taken you to my place but I have to keep it a secret. The war is over, I shall come back. You try your best to learn to help your grandma and mom”.


“Thắm! Take those things over to your grandpa’s boat, have meal with him then row back, or it’ll get dark soon.

I helped to bring bags of rice and foodstuff  over for Têt (New Year). After that, my grandma covered the boat seat with a mat, we served the dishes prepared at home. Among them, there was a dish- bambooshoot- stewed chicken that he liked most.


She lovingly looked at him “ It’s a real soft meal. After the meal you take all this to the hideout for your comrades - Têt’s specialities. When the trouble is over, we’ll prepare a real good party for all”. He  grinned “That’s good enough for Têt this year, I’m real happy. Next year, I shall be back for Têt with you two, especially with Thắm, my granddaughter?”,

“Yes, my grandpa”.  I said “yes” real loud, then helped myself to a piece of chicken, then stepped to the bow looking down on the bowl of rice and oozing tears. I didn’t want her to look at my shedding tears. What was the use? It only moved her to tears. Otherwise, I must be strong being my grandpa’s granddaughter, even though I was a girl. Not only girls were to easily shed tears.

He asked about things at home. He served her with some food and  asked her to take her own care. Then he took out of his pocket something that he handed to her. I dared not have  a look because I felt that intimacy between them would be lost soon, in no time.


That was our late afternoon meal on the NewYear’s Eve of the year 1971, a kind of family reunion party on the Xeo Muong canal, in the wilderness. I aimlessly beheld the herons hovering on the surface of the canal. Then I heard a voice calling. “Shelling at the start. They won’t stop shelling even on Têt holiday”. Boom.. bang…boom..

He shouted “Move the boat to the gourd trellis” “They shell even at this early hour” “They have no rules. Especially on Têt holidays, they want to spoil our Têt holiday”. Boom.. bang.. bang, shaking the earth. Pieces of earth and stones were sent in all directions, one hurting and paralysing my shoulder. I jumped up to the bank, but slipped and fell into the water. My grandma fell too. She grapped me up, then ordered

“ Stay there, flat. Let me check the shelter first.” She stooped and got into the old shelter by a tree trunk and then got out to drive us in, encouraging us “to slip down there”. “What about you”. “Don’t worry about me” retorted my grandpa”. “Try to be comfortable with the cold.”

I was both cold and afraid, my teeth striking each other. I cowered in my grandma’s bosom. She stroked my head, saying
“Just a moment after the shelling we’ll get changed. Don’t you worry. You see your grandpa still stays intact inspite of the shelling. We are afraid  just at our first visit.”  I felt ashamed with her words and pitied my grandpa. I am their grandchild but behave so cowardly. What a shame
Boom…bang…bang…

Many a shelling fell near the shelter. My grandma took my hand  “ Where is he now? You stay here, let me get out..” “ Wait until it lets up”


Boom..bang..again.. an explosion nearly. Earth fell upon us. The tree was cut down and fell on the shelter roof. My ears were stuffed, I felt as if unable to breathe. I uttered illegible words in panic. Nearly, she, too, uttered unclear words. She took hold of my hand, and little by little, I slipped in the blackened void.

Thump…thump…thump..
The call seemed to be faraway. I tried to open my eyes but they were too heavy and stingingly hot, my head seemed to be pulled down by a big stone.

“Thắm! Get up and help me pull your grandpa out. He’s wounded.”

Her speech had the strength to pull me up. She wiped my face with a wet cloth and pushed me, “Quick! Help me take him to the boat. He’s wound

We were moving to the bank, he trying to get on board, his blood dyed the bushes red. I quickly jumped to the  bow balancing the boat with the paddle straight down the water. My grandma tried to pull him up. In the dusk, I saw that his right leg almost broken off. The first time that I had seen blood - blood fresh of my beloved grandpa. I felt sore as if somebody had cut my body with a knife.   

He managed to be settled on the boat, bandaging his wound with his turban. Without any groan, his voice sounded different “You two try to row to the hideout, I ‘ll call them out to meet us”

I tried to row and drive back the hyacinths in the way. Still explosions, just a few, were heard around but I didn’t feel afraid. I only feared it would be too late to save him. I perspired a lot, my eyes hurt but I tried my best to look for the small path by which he had come out to us. At the sight of small gourd trellises he murmured “Here we are! Lâm! Lâm!”  His voice was too low to reach the hut. My grandma hurriedly called “Lâm! Lâm!” I formed a loud speaker with my hands “Lâm! Lâm, my grandpa is wounded.”




A torch light was seen zigzagging on all of us. Later on, a voice sounded
“Who’s there?”
“I’m wounded, Lâm!” Recognizing his voice, a small boat moved fast toward us.  A worried female voice

“Is it you, Dad?”
“I’m wounded. Your mom and Thắm are carrying me in”
“Move him over to your boat. We’ve  been worried for you.”

My grandma was relieved
“Let me take him in. You’ve got medicines”
 “We ‘ve got enough. We can also take some from the civilian clinic. Don’t you worry. We’ve been added a surgeon.”

The boat reached the bank. My grandpa was carried on a stretcher, blood dropped along the path. In the dim light, he looked real pale, his eyes sunken, tired. He looked at us saying

“After the shelling, you two row back. I ‘ll be alright. They are able to treat these common cases.”
My grandma was moved
 “Don’t worry. I won’t be back until you feel better.” 
Uncle  Lâm behaved intimately

“You two stay here until 4 A.M, then I’ll take you to the canal”, “I’ll not leave until he’s alright. You take good care of him. I’m grateful to you.”


Uncle Lâm took him to the operation room. My grandma and I were seated in a hut in the front of  the wing. How stuffed it was. I walked out into the dark. Breezes were chilly. We hadn’t changed our clothes, we felt cold to the bones. Sounds of operating tools gave us goose flesh. No groans were heard. Whether he was still alive we didn’t know.


Tired, I leant against the trellis. Not even a cockcrow nor a dog bark on the last night of the year. From the dark night vault, bunches of flare were falling, red as blood. All of a sudden, I felt a naked hate, it brought great dangers to my grandpa, my family and my people. I fell asleep. In my dream, I saw my grandpa’s silhouette, tall and slim, swiftly moving with the pole, set off in the afternoon light.


 My grandpa was lucky, staying alive after the event and going on managing the provincial military unit. During the wars against the French and the Americans, he had many times been wounded, put in prison but he managed to live on, stick to the village as fast as a water coconut tree, plain but lasting and unusually strong.

In 1972, the Paris treaty was in trouble while the battle field was boiling up all over south Vietnam. My grandpa went back to canal My Loi, near Xeo Muong and built a small hut for my grandma and the rest of the family. At the time she was the head of steward women’s association, unable to perform her duties in the surrounding area because of her being uncovered. My fifth uncle was assistant commander of bat-allion 261, my youngest uncle was a member of Mytho province artist group. Due to an unknown motivation, I came there and opened a school. For the past-illiteracy age children and adults. MyLoi folks came there too, built their bungalows and did the farming. Everyone realized  the independence Day would be near so they were not afraid of military campaigns. The so-called school was built in a banana garden. Bamboo trees and  thatch were used as building materials. Next to the schoolroom, they built a T- sheter with gourd trellis covering half of the roof and flowers around  making it a tomb with flowers on top from the distance. I taught that class without syllabus or schedule. When the sunlight was yellow on the tree tops, the sky clear, no planes in sight we began our class.

Twenty innocent faces looked up to the board listen to my pronouncing, then awkwardly imitated. I corrected each sound, each word, and when the results were satisfactory, then came the time for writing letters and words. Rough and blackened hands were working hard with strokes. Though being “old” chidren, they were intelligent, which interested me. Teacher without pedagory, students without tools and no regulations whatsoever. Schooling was fun, they learned to read and write quickly. I taught them academic subjects, they, in return, taught me farming, harvesting, fishing, rat catching, frog searching… I attended every campaign, just as an assistant. In those practices I was not a teacher but an unskilled awkward member under my students’ directions, but they liked my being with them regardless of all those inconveniences.

That night, the hamlet was busy with the regiment of warriors waiting for the operation. My classroom was reserved for them. The outer apartment was also occupied. Warriors, so many of them, occupied the bank along the Mytay river.

My house is busy too, with my uncle’s presence. After the jovial family meal, no one went to bed. My grandparents murmured their confidences. My uncle and I were sitting under the gourd trellis singing. He sang well, being a company political instructor and  concurrently in charge of the artistic group.
He said
“your mom bought me this guitar. In peace time I’ll make a singing tour across the country. It must be great fun.

I joked
“Why don’t you get married? Miss Hien often discusses you” His bright eyes suddenly looked far “I don’t want to worry her in such a war time. If you should see her, tell her to get married, not to wait for me. It must be so long”

“ No way, you talk to her yourself. You can’t  trust me with such a secret.”


He burst out laughing, knocking on my head “No kid’s business - secrets. Go to the rivulet mouth to bring her tomorrow, you’ll get  your reward”

“Remember that! Don’t forget a kid’s contribution to the Revolution”
“Don’t you worry. I’m a man of high credits. I ‘ll never forget the match- maker once getting a wife”

“Thăm! Go to bed, it’s late. You take a rest,  too. It’s quiet now, but how about tomorrow?”, “Don’t you worry. They don’t dare to do anything now that we are here”,

“So quiet! They are so afraid of you. Go to bed. It’s midnight. I’ll be back to the secret tomorrow.”


Her mention of the confrontation tomorrow stopped our cheerful story. Such was war, so rare the time for cheerful innocent enjoymen. I was sleeping soundly when calls startled me.

My grandma said in a low voice
“get up and be ready they’ll start an operation tomorrow.”

He continued “you and your grandma move to Thu’s house. I’ll go to the hideout to take care of the wounded warriors there, your uncle will be in charge of his unit. Everyone to his task, be quick and be prepared for it. He limped down  the wharf emptied the boats of water then rowed off quickly. After putting papers and other things in their places, I and my grandma rowed to the rivulet mouth in the direction of the grandma rowed to a place safe with shelters.
My uncle, on the wharf, said “Be careful! The mopping up operation is big, Mom!

Take care of yourself. We’ll be safe there”

“Remember to take Hien along on your return”

“Don’t worry, the match - maker’s task will be fulfilled”
“Ha…ha…only after a few days, she’s learned to know “political term” fast. I’ll  nominate you to political instructor position. His innocent laugh sounded on the river spreading out in the quiet, peaceful morning. Lots of debris were scattered over the other side of the swamp. I, together with my grandma and aunt Ba’s children  in the shelter, was listening. Suddenly, there were explosions and gunfire. I was anxious about my uncle and grandpa.

Thu, my student, suggested “They come face to face, then they’ll get enough with batallion 261. What a confrontation!”

“Shut up, We are very worried and you shout like that”.

I pulled him inside. Bullets were flying in all directions, but he stayed so calm. Beyond the field, there were loud shouts and curses. Thu put his head out of the shelter and back in a hurry

“Grandma! Grandpa coming!”

He came in a hurry, all soaked with water and a strange look on his face... It seemed that something bad had happened. He looked at us, silent, then uttered his choked word “Our son. Quang sacrified!”, she seemed not to hear it, asked “ What about Quang?”.

I fell into a stupor. My two ears were tinkling. His voice was low but with an electric effect. I asked him “ Uncle…Is it true ?”

He stayed silent. Two drops of tears oozed out of his tired eyes. He looked much older. He hurriedly said “When they withdraw, you two get back at once. I’ll try to move them to the next group.”


After that, he rushed out of the door. He moved along with bushes of hyacinlhs which I saw flowing to canal 28.


Night was falling. The sunlight faded over the paddy fields. Clouds were dark red. The flight of helicopters returned to meet the regiment. They looked like a school of tadpoles swimming in a blood sea crazily growling in a sky corner, hastily ending the operation. As for me, never before had I wanted the darkness to come over us so soon.

Twilight. We hastily rowed back. From afar, I saw the ruin on the battlefield. Trees broken and fallen everywhere. The house completely damaged, only a big pit left with burning bomb smoke. I dashed to the school room, half of the tunnel was destroyed. Tables, chairs, blackboard all broken, flowers fallen everywhere among heaps of debris.

My uncle’s body was placed in the school room. It seemed to be asleep. On his chest a blood spot by a bullet shot from an American soldier on a helicopter when he was crossing the banana garden commanding the attack. The funeral ceremony was soon held, plainly but majestically, moving all the company present. My grandma put her wrinkled face close to the dead person’s face combed his hair with her hand, hold his pale hand in hers, meaning “My son! Peace is coming, what’s the hurry… The ring your father gave you to get a wife is still here…you’re leaving so hurriedly”…

My grandpa came to her, wiped his face, kissed his forehead, then helped her up and said in a low voice “Stop it, please. Our son has fulfilled his mission. Let his comrades, take care of his body. They have other missions to fulfill.”

The ceremony ended. He was buried in the banana garden next to the schoolroom, on the bank of Xeo Muong. His comrades’ eyes turned red, sadly saying farewell. They went on with their operation.

After my uncle’s death, my grandparents became meager - my grandpa remaining as silent as a shadow. Night and day, she rowed her boat on missions. Rain or shine, day or night she forgot her woes and inflictions of loss with missions and tasks, which only parents could fulfill in such situations. War, calamity, death, common events as they were, became so awfully damaging to my family members and to me, a haunting fear, an endless nightmare.



War was over a long time ago. My country is now covered with the greenery of trees and rice fields. Along either side of the My Tay river are seen much more decent houses. My grandma was dead, my grandpa is over 80 now. In late afternoons he often stays in the family garden taking care of the plants that my grandma used to love.

The war has been blurred out little by little by the new scenery, but the wounds have not been healed in the hearts of those who stay alive.

Quê ngoại




Bơi tới vàm sông Mỹ Tây, bà tôi bảo tấp vô gốc gừa nghỉ tay một chút.

Dòng sông vắng vẻ lạ thường. Cái im lặng rờn rợn của sự chết  chóc thời chiến  tranh sao ảm đạm, bí hiểm  quá. Giữa không gian tỉnh mịch đó, bỗng đâu lãnh lót một tiếng chim trên cây xoài cụt ngọn. Tiếng  con chích choè lửa nghe  ríu rít hồn nhiên làm cho cảnh vật bớt phần hoang vắng. Tiếng con chim líu lo trên cây xòai  de sát bờ sông, cây xoài khoe  những chùm trái chín vàng như cố chắt chiu  những gì quí giá còn lại của mình, thưởng  công cho ai vẫn còn nắm níu mãnh đất đã bị đạn bom  cày xới tan nát.

Tôi đứng lên, với tay định hái chùm xoài nhưng bà tôi ngăn:

- Để dành cho mấy chú đi công tác, mình thèm thì về nhà, thiếu gì con.
-  Con hái  cho ông ngoại.
- Thôi đi! Đồ ăn  thiếu gì đây. Mùa xoài sau, mình đem vô cho ông, ông có thèm khát gì mà sợ.

Tôi sợ mấy trái xoài bị chim ăn uổng nhưng nghe bà nói vậy đành thôi. Thật ra, nhà tôi ở vùng ven Cái Bè, vườn cây vẫn còn nguyên vẹn nhưng sao tôi tiếc mấy trái xoài lẻ loi. Tôi muốn hái tặng ông tôi, người mà tôi rất thương yêu.

Nghỉ được một chút, bà giục :- Đi nhanh cho ra khỏi con sông nầy, máy bay bỏ bom bất tử lắm. Nghe tới bom đạn tôi sợ điếng người, vội cầm cây dầm khuấy mạnh xuống dòng nước ngược. Tôi với bà cố sức bơi không dám hở tay, tai lắng nghe tiếng máy bay u u ở phía xa.

Qua khỏi vàm Xẻo Muồng một đỗi, bà bảo:
-  Gần tới rồi, con nghỉ tay để bà bơi cho.


Tôi không bơi nữa mà cúi khom người xuống để dẹt đám lục bình đã bịt kín lối đi. Vừa làm, tôi vừa nhìn cảnh vật chung quanh. Sao hoang tàn quá thế nầy? Những cây cầu bắt qua sông gảy gục, trơ vơ chỉ còn một nhịp ẩm mốc, cỏ dại um tùm không thấy lối đi. Lơ thơ vài ngôi  nhà hai bên dòng kinh chỉ còn trơ những cây cột cháy đen nham nhở. Gần đó, mấy cội mai vàng bị bỏ hoang từ lâu cũng cố chắt mót mấy nụ hoa đầu. Tiếng quạ kêu quang quác trên tàn cây gáo khiến tôi lo lắng quay nhìn bà, bà tôi biết ý, động viên:

-  Con đừng sợ gì cả. Ong mầy ở như vầy mới sống được lâu đó. Thôi! Tới đây ngưng được rồi, chờ một chút ông không ra thì con bắt chước tiếng quốc kêu ông.

Tôi với bà ngồi giữa một vùng hoa súng. Dưới làn nước đục, hoa vẫn đỏ hồng. Có chiếc đã nở, có chiếc còn búp, đầu thon thon màu hồng phấn, vượt lên trên làn nước giữa đám lá xanh um. Mỗi lần gió thoãng, hoa rung rinh nghiêng nghiêng theo chiều gió.Đợi một lúc lâu, không thấy động tỉnh, bà bảo: - Con gọi ông đi! Chắc ông mầy không thấy. Cỏ dại cao quá, cỏ năm nay cao hơn năm rồi nhiều.

Quốc! Quốc! Quốc! Tôi chu miệng nhại tiếng con quốc rồi im lặng lắng nghe. Một lúc sau, từ trong đám ô rô cóc kèn có tiếng sột soạt rồi mũi xuồng hiện ra. Sau lái, một ông già cao cao gầy gầy mặc bộ đồ đen, đầu vấn khăn rằn. Đó là ông tôi.

Giọng bà tôi nghèn nghẹn: - Ông mầy tới kìa! Đừng kêu ầm ĩ nghe con.

Ông tôi chống xuồng nhanh thoăn thoắt. Dáng ông cao ráo vững chải với cây sào, in đậm dưới rán trời chiều. Nét mặt ông giản ra theo nụ cười. Đôi mắt sáng tinh anh, chiếc mũi cao hơi nhọn khiến mới thoạt nhìn trông ông giống như một người Pháp mặc áo quần Việt nam. Tôi kêu nho nhỏ trong cổ: - Ngoại! Ông ngoại! Khi hai chiếc  xuồng kề nhau, ông đưa tay cho tôi bước qua xuồng ông, ông ôm tôi vào lòng, mắt rươm rướm, giọng  khàn khàn: Bà cháu bây tới hồi nào mà ông chờ lâu ghê.

Bà tôi thút thít khóc, đầu cúi thấp trong nón. Nhìn bà rồi nhìn ông tôi cũng muốn khóc quá nhưng cố kềm, giọng nghẹt nơi sóng mũi: -  Ông ở như vầy buồn quá! Ong ở một mình hay ở với ai vậy ông? Ông vỗ đầu tôi, gượng cười: - Ông đi đánh giặc mà buồn vui gì con. Đáng lẽ ông dẫn hai bà cháu tới chỗ ông ở nhưng vì cần giữ bí mật cho cơ quan nên không đi được. Khi nào yên giặc ông về. Con ở nhà ráng học, phụ giúp mẹ với bà mầy nghe con.

- Thắm ơi! Con chuyền đồ đạc qua xuồng ông, ăn cơm với ông rồi về để tối.


Tôi phụ khiêng mấy bao gạo và mấy giỏ thức ăn ngày tết. Xong xuôi đâu đó, bà trãi chiếc chiếu mới lên xạp xuồng, hai bà cháu bày thức ăn nấu sẵn ở nhà. Nào thịt ba rọi kho tàu, củ kiệu, dưa giá, bì cuốn, xôi đậu và món gà hầm măng mà ông  rất thích.


Bà âu yếm  nhìn ông: - Tôi nấu gà hầm măng mềm lắm. Ông ăn cơm rồi chở đồ đạc về cho anh em ăn Tết lấy thảo. Chừng nào yên ổn, bà cháu tôi tổ chức đàng hoàng hơn. Ông cười: - Như vậy là quí rồi. Năm nay anh em có đủ đồ ăn Tết tôi mừng lắm. Năm tới tôi sẽ về ăn Tết với bà cháu bà. Ông về ăn tết với con nghe Thắm? - Dạ.
Tôi dạ rõ to rồi gắp miếng thịt gà bỏ vào chén cơm, bước ra sau lái, nhìn chén cơm mà rân rấn nước mắt. Tôi không muốn ông bà nhìn thấy tôi khóc. Tôi khóc thì được tích sự gì? Chỉ tổ làm cho bà mũi lòng thêm. Vã lại, tôi là cháu ông, phải cứng rắn, mạnh mẽ như ông, dù  tôi là con gái nhưng đâu phải con gái nào cũng mau nước mắt đâu.


Ông tôi vừa ăn vừa hỏi thăm bà chuyện nhà. Ong gắp thức ăn bỏ cho bà, dặn dò bà giữ gìn sức khoẻ rồi ông móc túi đưa cho bà vật gì đó tôi không nhìn rõ vì tôi không dám nhìn cái cảnh đầm ấm hiếm hoi của ông bà mà không biết rồi đây nó có còn được như vậy nữa hay không?

Đó là bữa cơm chiều 30 Tết năm 71, bữa cơm đoàn tụ gia đình bên bờ vàm Xẻo Muồng, trong đám lau sậy hoang vu. Tôi lơ đãng ngắm mấy cánh cò bay lã trên mặt nước, bỗng nghe giọng ông lo lắng:
- Pháo đề- pa đó. Tết nhứt tới nơi mà nó không nghỉ.
Hú..hú..chéo…rầm rầm…


Ông tôi kêu:
-  Cặp sát xuồng vào gò trâm bầu đi bà!
-  Còn sớm mà nó bắn sao ông?
- Tụi nầy không có qui luật gì rõ. Nhất là ba ngày tết, nó canh không cho mình ăn. Hú..hú…chéo..ầm..ầm. Những tiếng pháo cấp tập làm rung rinh lòng đất. Đất đá văng lịch bịch, có miếng trúng vào bả vai tôi tê buốt. Tôi nhảy bươn lên bờ nhưng do hoảng hốt nên trợt chân té xuống nước, bà tôi cũng té theo. Bà nắm tôi kéo lên nhưng ông ra lệnh:
-  Nằm sát đó! Đề tôi kiểm tra công sự đã.
Ông chun vào một công sự cũ nằm gần gốc mù u rồi chạy trở ra kéo bà cháu tôi lên, giục: - Bà cháu bây chun xuống đó đi!
- Còn ông?. - Kệ tôi. Con Thắm chịu lạnh một chút đi con.


Vừa lạnh, vừa sợ, hai hàm răng va vào nhau lộp cộp, tôi ngồi nép vào lòng bà. Bà tôi xoa đầu, động viên:

- Ráng chút nữa nó bắn qua truông rồi lên thay đồ. Con đừng sợ. Nó bắn hà rầm mà ông mầy có hề hấn gì. Mình mới vô một chút đã sợ rồi. Nghe bà nói tôi đâm ngượng và thương ông quá đỗi. Tôi là cháu ông bà  mà nhát như thỏ đế, thật xấu hổ với ông quá.
Bụp..xè..xè..ầm..ầm..

Nhiều đợt pháo nổ gần công sự. Bà tôi lo lắng nắm chặt tay tôi:
- Không biết ông mầy ở đâu? Con ngồi đây bà chạy ra ngoài…
- Để nó ngưng chút xíu rồi bà ra.

Xè …xè..ầm..ầm…Một trái pháo nổ sát công sự. Đất đè ập xuống hai bà cháu, ngọn mù u gảy răng rắc rớt trên nóc hầm. Hai tai tôi u u, ngực tức căng như muốn nghẹt thở. Tôi ú ớ gọi bà trong hoãng loạn. Bên cạnh, bà tôi thì thào điều gì không rõ. Bàn tay bà vẫn nắm chặt tay tôi, tôi chìm dần vào khoãng không đen đặc…

- Thắm à! Thắm! Tỉnh lại con!
Nghe tiếng gọi văng vẳng tôi cố mở mắt nhưng sao đôi mắt cay xè nặng chịch, đầu như có ai treo đá.


- Thắm à! Ráng dậy phụ kéo ông ngoại lên. Ngoại bị thương rồi con à!

Hai tiếng bị thương như có sức mạnh đẩy tôi ngồi dậy. Bà lau chiếc khăn ướt lên mặt tôi, hối hả giục: - Mau ra phụ kéo ông mầy lên xuồng, ông bị thương rồi.

Tôi với bà bươn ra bờ kinh. Ong đang cố sức trèo lên xuồng, máu loang đỏ  cả một vùng hoa súng. Tôi nhảy vội xuống mũi, chống dầm giữ yên xuồng. Bà tôi cố sức kéo ông lên. Trong bóng đêm lờ mờ, tôi thấy chân phải của ông gần như gảy lìa. Đó là lần đầu tiên tôi thấy máu. Máu thịt của người ông thân yêu của tôi đã đổ, lòng tôi đau nghiến như có ai lấy dao cắt.


Ông tôi ngồi được lên xuồng. Ong lấy chiếc khăn rằn bịt trên đầu lặng lẽ cột vết thương. Không một tiếng rên, giọng ông hơi lạc đi: - Hai bà cháu ráng bơi vô gần cứ, tôi kêu anh em ra rước…

Tôi vừa cố sức chống xuồng, vừa vẹt những cụm lục bình cản lối. Tiếng pháo vẫn ì ầm lúc xa lúc gần nhưng tôi không còn sợ gì nữa. Tôi chỉ sợ bơi không kịp với tử thần đang chờ chực bên ông. Mồ hôi vã ra như tắm, mắt cay xè  nhưng tôi vẫn gắng sức tìm kiếm cái khoãng trống lờ mờ nhỏ như sợi chỉ, tìm con đường khi nãy ông tôi đã đi ra. Khi thấy những căn nhà nhỏ nằm dưới rặng trâm bầu, ông tôi thều thào bảo:
- Tới rồi ! Lâm ơi! Lâm..âm.. Giọng ông quá nhỏ, không vang được tới chỗ mấy căn nhà. Bà tôi nóng nảy gọi: - Lâm ơi! Lâm! Tôi bắt tay làm loa, kêu toáng lên:
- Chú Lâm ơi! Chú Lâm! Ông cháu bị thương rồi

Anh đèn pin từ căn lều quét ra, rọi lên từng khuông mặt. Chốc sau, có giọng người hỏi:
- Ai đó?
- Tao bị thương rồi Lâm ơi!
Nghe đúng giọng ông tôi, chiếc xuồng nhỏ bung ra, bơi nhanh tới. Một giọng phụ nữ lo lắng:
  - Ba hả ba?
  - Tao bị thương, bả với con Thắm đưa vô đây.
-          Kè ba qua xuồng đi anh Lâm. Hồi chiều giờ tụi con lo cho ba quá!
-           
Bà tôi mừng rỡ:
-  Để  tao đưa ổng vô. Thuốc men có đủ không mấy đứa?
- Dạ đủ. Thiếu thì qua Dân y tỉnh mượn. Mới tăng cường một bác sĩ phẫu, má đừng lo.

Xuồng cặp bến. Ong tôi được khiêng lên bờ bằng chiếc cán, máu nhỏ giọt dài theo đường đi. Dưới ánh đèn leo lét, gương mặt ông tái xanh, đôi mắt sâu hóm mệt mõi. Ông nhìn hai bà cháu dăn dò:

- Giờ nầy qua pháo rồi, hai bà cháu lo bơi về cho sớm. Tôi không sao đâu. Mấy ca nầy ở đây nó trị được
Bà tôi mếu máo:
-          Ông đừng lo. Tôi chờ ông khoẻ rồi về.

Chú Lâm ân cần:

- Má với cháu nghĩ ở đây. Khoãng 4 giờ sáng con đưa ra vàm về cũng còn sớm.
- Ờ. Ông chưa khoẻ,  tao về thắc tha thắc thẻo sao yên, bây lo cho ổng chu đáo, má  mang ơn.

Chú Lâm đưa ông tôi vào phòng phẩu thuật. Bà và tôi ngồi chờ ở căn lều đầu dãy nhà. Ngột ngạt quá! Tôi bước ra ngoài  trời đêm . Gíó  từ những cánh đồng xa thổi tới se se lạnh. Bộ đồ ướt lúc chiều vẫn chưa thay, cái lạnh lẫn vào da thịt tê buốt. Tiếng dao kéo khua từ phòng mỗ khiến tôi rợn người. Không biết ông tôi còn sống hay đã chết mà không nghe tiếng nói nào, cũng chẳng có một tiếng rên la.

Tôi mỏi mệt dựa lưng vào gốc trâm bầu. Đêm 30 trừ tịch không một tiếng gà gáy, không một tiếng chó sủa. Trên bầu trời đêm, từng chùm pháo sáng đỏ quạch lừ đừ trôi xuống, pháo của kẻ thù cũng mang màu đỏ của máu. Bỗng nhiên tôi căm ghét nó, nó mang sự chết chóc đến cho ông tôi, cho gia đình, làng xóm tôi. Tôi mơ màng thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn hình ảnh ông tôi, dáng vóc cao gầy thoăn thoắt với cây sào, in đậm dưới rán trời chiều.

Số ông tôi còn đỏ, sau trận ấy ông vẫn còn sống và tiếp rục điều hành cơ quan Quân y tỉnh. Đánh Pháp rồi đánh Mỹ, ông bị thương không biết bao nhiêu lần, vào sinh ra tử, tù tội bao phen nhưng ông tôi vẫn sống, vẫn bám chặt vùng đất quê ngoại như những gốc dừa nước, bình dị giản đơn mà dẻo dai, mạnh mẽ phi thường.

Năm 1972, khi Hiệp định Paris đang gay go ở trời Tây thì chiến trường miền Nam sôi bùng lên, sùng sục khắp nơi. Ong tôi trở về kinh Mỹ Lợi, gần vàm Xẻo Muồng cất cho bà tôi căn nhà nhỏ để những người trong gia đình có điểm mà tụ tập về. Lúc ấy, bà tôi là Hội trưởng Hội Phụ nữ xã, không còn công tác vùng ven nữa vì đã bị lộ. Cậu Năm tôi là Đại đội phó của Tiểu đoàn 261, cậu Út theo đoàn Văn công Mỹ Tho. Không biết do động cơ nào tôi cũng về đó cất trường dạy học. Dạy lũ trẻ con quá tuổi mù chữ và dạy bổ túc cho người lớn. Dân Mỹ Lợi lác đác trở về dọn nền, cất chòi làm ruộng. Ai nấy nhận định tình hình “mõng” lắm rồi, ngày độc lập gần kề nên họ không sợ càn quét nữa. Lớp học được dân Mỹ Lợi cất trong khu vườn chuối. Tất cả tre, lá do họ mang đến. Kề bên lớp, bà con  đấp một cái trảng xê hình chữ T chắc chắn chiếm hết phân nữa lớp học. Phía trên nóc xóc cừ trâm bầu, bên ngoài trồng hoa Mười giờ. Xa xa, nhìn giống như ngôi mộ đầy hoa. Tôi dạy học không có chương trình, thời khoá biểu gì rõ ràng. Mỗi buổi sáng, khi nắng đã vàng trên các ngọn cây, bầu trời trong veo, không có máy bay quần rú thì thầy  trò bắt đầu lên lớp.



Hai mươi gương mặt ngây thơ chân chất nhìn lên bảng, lắng nghe giọng đọc của tôi rồi ngọng ngịu đọc theo. Tôi sữa từng âm, từng từ cho đến khi nào vừa ý thì tập viết. Những bàn tay thô kệch đen đúa nắn nót từng con chữ. Tuy học muộn mằn nhưng chúng thông minh nên tôi thích dạy. Cô giáo chẵng qua một ngày sư phạm, học trò thì không có phương tiện, nội qui gì cụ thể, vậy mà vui, vậy mà chúng nó biết viết, biết đọc rất nhanh. Tôi dạy chúng chữ nghĩa, chúng dạy lại tôi chuyện đồng áng. Gặt lúa, câu cá, bắt chuột, soi ếch…đám  nào tôi cũng tham gia nhưng chỉ giữ vai trò phụ . Những lúc ấy tôi không còn là cô giáo nữa mà là một thành viên đầy bở ngỡ vụng về, chỉ biết nghe theo sự dẫn dắt của đám học trò, nhưng chúng không chú ý điều đó, miễn sao có sự góp mặt của tôi là chúng thích rồi.



Tối hôm ấy, ấp Mỹ Lợi rộn rịp hẳn lên vì bộ đội 261 về đóng quân chờ xuống đường. Lớp học của tôi nhường cho bộ đội. Nhà ngoại cũng chật ních người. Bộ đội đóng rãi dài theo sông Mỹ Tây, không biết cơ man nào là bộ đội. 

Nhà tôi tối nay rộn rã vì có cậu tôi về. Sau bữa cơm gia đình vui vẽ, cả nhà không ai ngủ. Ong bà tôi thì thầm trò chuyện. Tôi với cậu ra cây cầu trâm bầu ngồi đàn hát. Cậu tôi hát rất hay, cậu là Chính trị viên Đại Đội kiêm thêm chức Trưởng ban Văn Nghệ.

Cậu khoe:
- Má mầy mua cho cậu cây đàn nầy. Khi nào hoà bình rồi tao sẽ đi biểu diễn khắp đất nước mình, chắc vui lắm đó.

Tôi trêu:
-  Sao cậu không cưới vợ đi. Chị Hiền nhắc cậu hoài đó. Đôi mắt sáng của cậu tôi bỗng nhìn xa xăm -  Chiến tranh nầy cậu không muốn làm khổ cô ấy. Mầy có gặp thì nói dùm cậu cô  lấy chồng đi, đừng chờ cậu lâu lắc lắm.         

- Ý! Đâu có được. Cậu muốn nói gì thì gặp chị ấy chớ chuyện “cơ mật” mà cậu nhờ người khác sao được.

Cậu tôi bật cười, cốc lên đầu tôi mắng mỏ:
- Mầy con nít mà cũng bày đặt, cơ với lại mật. Mai mầy ra vàm rước cô ấy vào đây. Rước được thì tao thưởng.

- Nhớ đó. Đừng quên người có công với… cách mạng à nghen.
- Khoẻ. Cậu mầy uy tín đầy mình. Không lẽ được vợ lại quên bà mai sao.


- Thắm ơi! Khuya rồi đi ngủ, còn thằng quang lo nghĩ ngơi cho khoẻ. Tối nay im tiếng pháo không biết ngày mai như thế nào đây?

-  Không sao đâu má. Có tụi con về nó không dám làm gì đâu.
- Ngon lành quá hén. Nó sợ  cậu ghê lắm đó. Thôi đi ngủ! Nữa đêm rồi, mai tính tiếp chuyện “cơ mật”.

Bà tôi nhắc nhở chuyện phải đối phó ngày mai khiến hai cậu cháu ngắt ngang câu chuyện đang vui. Chiến tranh là vậy! Giây phút vui vẻ, hồn nhiên thật hiếm hoi.
Giấc ngủ đang say, tôi chợt giật mình vì tiếng gọi nhau í ới.
Bà tôi kêu khẻ:
-          Thắm à! Dậy chuẫn bị đồ đạc, có tin sáng nay nó càn đó con!

 Ông tôi nói: - Con với bà mầy tản qua bên mẹ con thằng Thu. Ong phải về cứ điều đám thương binh, còn cậu mầy lo đơn vị của nó. Người nào việc nấy, phải nhanh chóng lên mới kịp nghe con. Ông khập khiểng bước xuống bến, tát nước hai chiếc xuồng ba lá cho khô ráo rồi vội vã bơi đi. Sau khi cất xong giấy tờ, đồ đạc, tôi với bà bơi ra vàm về hướng bưng lớn, đến nhà của cơ sở, nơi ấy có hầm BM.


Cậu tôi ngồi trên bờ nói với theo:
- Má đi cẩn thận. Bữa nay nó càn lớn đó nghe!
- Ờ! Lo thân con đi. Má với con Thắm qua bển là yên thân rồi.
- Chiều về nhớ ghé rước chị Hiền nghe Thắm!

- Yên chí! Nhiệm vụ bà mai sẽ hoàn thành!

- Ha… ha… Con nhỏ nầy mới vô có mấy tháng mà nó nói toàn từ chính trị không vậy ta. Để cậu đề bạt mầy làm chính trị viên được lắm đó! Tiếng cười hồn nhiên của cậu tôi vang trên dòng sông, lan toã trong buổi sớm mai còn tỉnh lặng, yên bình.
Không thể đếm được bao nhiêu bom pháo dội xuống bên kia bờ bưng. Tôi với bà và mẹ con dì Ba ngồi trong căn hầm,  ai nấy căng tai lắng nghe. Bỗng nhiên, tiếng súng lớn, súng nhỏ bắt đầu rộ lên. Tôi lo thót ruột cho cậu và ông tôi.

Thằng Thu (học trò tôi) nhận định:
-          Đụng rồi! Chuyến nầy gặp 261  no đòn rồi! Hà.. hà.. đả thiệt.

Dì Ba quát: - Mầy có chịu im miệng chưa? Rầu muốn chết mà cái miệng mầy om sòm hà.
Tôi lôi tuột nó vào trong hầm. Đạn bay vèo vèo mà nó hết sức ỷ y. Bên kia thửa ruộng, tiếng la hét, tiếng chửi thề nghe dậy đất. Thằng Thu ló đầu ra khỏi hầm rồi lật đật thụt vào thông báo:

-          Bà ngoại ơi! Ông ngoại tới kìa.

Ông tôi hớt hãi đi vào, quần áo ướt loi ngoi, sắc mặt khác thường. Linh tính như báo cho tôi điều gì chẳng lành. Ong nhìn chúng tôi lặng đi giây lâu rồi nghẹn ngào:
- Bà ơi! Thằng Quang …hi..sinh..
 Bà tôi như nghe không rõ, hỏi lại:
-          Gì? Ông nói… thằng Quang…

Tôi đờ người. Hai lổ tai lùng bùng. Câu nói của ông tuy nhỏ nhưng như có luồng điện, tôi lập lại câu hỏi: - Cậu… thiệt không ông?

Ông tôi lặng thinh. Hai giọt nước trào ra trong đôi mắt già nua mệt mõi. Mới đó mà trông ông già đi quá nhiều. Rồi sực nhớ, ông hấp tấp nói: - Chừng nào nó rút, bà với con Thắm lo về liền. Tui lo điều tụi nó qua cụm bên kia

Nói xong, ông lao ra cửa. Ông tôi “long” xuống kinh theo những dề lục bình. Nhìn theo, tôi thấy mấy dề lục bình trôi về hướng kinh 28.

Chiều xuống dần. Nắng đã nhạt trên ruộng lúa. Xa xa, từ phía chân trời, rán chiều đỏ thẫm. Đoàn trực hồi sáng trở lại rước quân. Chúng trông như một bầy nòng nọc bơi trong máu, hung hăng gầm rú làm điên đảo một khoãng  trời, chúng vội vã kết thúc trận càn. Còn tôi, tôi chưa bao giờ mong cho trời mau tối như lúc nầy.


Trời vừa chạng vạng, chúng tôi vội bơi xuồng về.Từ xa, tôi đã nhìn thấy cảnh đổ nát trên trận địa. Chuối, trâm bầu ngã la liệt. Căn nhà bị bứng bay đi tan nát, chỉ còn lại cái hố sâu, mùi khói thuốc bom bay khét lẹt. Tôi chạy ra lớp học, căn hầm bị sập phân nữa. Bàn, ghế, bảng đen gảy vụn, hoa Mười giờ rơi rụng tả tơi, bầm dập dưới đất lẫn trong vỏ đạn và miễng bom.

Xác cậu tôi được đặt tại lớp học. Gương mặt cậu vẹn nguyên như đang ngủ. Trên ngực áo loang lỗ vết máu bỡi viên đạn của thằng Mỹ trên trực thăng bắn xuống khi cậu băng ngang vườn chuối, chỉ huy mũi xung kích  đánh bộ binh. Buổi lễ truy điệu được nhanh chóng tiến hành, đơn giản trang nghiêm nhưng thật xúc động. Bà tôi áp gương mặt nhăn nheo lên mặt người chết, bà vuốt tóc cậu, cầm bàn tay xanh mướt của cậu, than khóc: - Con ơi! Gần ngày hoà bình rồi, nỡ nào con đi… Chiếc nhẫn ba mầy đưa để lo vợ cho mầy còn đây, chưa kịp lo mà mầy bỏ má mầy đi…


Ông tôi lặng lẽ đến bên bà, vuốt mắt cậu tôi, hôn lên trán cậu, đở bà đứng lên, nói khẻ: - Thôi bà ! Con mình hoàn thành nhiệm vụ rồi để cho anh em lo đám cho xong, họ còn đi nữa.


Buổi lễ truy điệu kết thúc. Xác cậu tôi được đem chôn trong vườn chuối cạnh lớp học, trên bờ vàm xẻo Muồng. Đồng đội cậu ai nấy mắt đỏ hoe, buồn bã tiễn biệt.Họ lại phải tiếp tục cuộc hành quân.

Sau ngày cậu mất, ông bà tôi gầy hẳn đi. Bà lặng lẽ như cái bóng. Ngày đêm với chiếc xuồng nhỏ, bà bơi đi công tác. Bất kể nắng hay mưa, đêm hay ngày bà lấy công việc để khoả lấp nổi đau của người mẹ mất con, nổi đau mà chỉ có những người làm cha làm mẹ lâm  vào hoàn cảnh đó mới hiểu thấu. Chiến tranh! Thương tật, chết chóc là chuyện thường tình nhưng khi chuyện bình thường đó đổ  ập lên gia đình tôi sao nó kinh hoàng quá, nó đau đớn đến nổi trong giấc mơ vẫn ám ảnh mãi nơi tôi một nỗi sợ hãi khôn nguôi!

Chiến tranh đã tạnh từ lâu! Quê tôi giờ đây phủ màu xanh của lúa, của vườn cây. Dọc hai bên bờ sông Mỹ Tây , nhà cửa khang trang trù phú hơn xưa nhiều. Bà tôi mất, ông tôi đã tám mươi tuổi. Những buổi chiều tàn, ông  thường ngồi bên khu mộ gia đình  chăm chút những khóm tường vi màu hồng phấn, loại hoa mà ngày xưa bà tôi rất thích.

Chiến tranh dẫu đã xoá nhoà bỡi cảnh sắc mới, nhưng nỗi đau vẫn chưa lành trong trái tim  người còn lại.
dichtienganh.info_st 

Read More